4 bậc vĩ nhân của lịch sử Việt Nam đã để lại những lời sấm truyền, sau này thành sự thật, trong đó có Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tiên tri đúng về Cách mạng tháng 8 và Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Thiền sư Định Không
Thiền sư Định Không quê ở Cổ Pháp, Bắc Ninh. Ông sinh ra trong một gia đình thuộc dòng dõi quý tộc họ Nguyễn. Ông được mọi người biết đến là người am hiểu thế số, hành động theo đúng pháp tắc và biến đoán tương lai.
Một trong những lời tiên tri của ông sau 200 năm đã linh ứng đó chính là sự ra đời của nhà Lý. Lời tiên tri của ông có nội dung như sau:
“Pháp khí xuất hiện
Thập khẩu đồng chung
Tính Lý hưng long
Tam phẩm thành công”.
Dịch ra tiếng Việt có nghĩa là:
“Hiện ra pháp khí
Mười khẩu chuông đồng
Họ Lý hưng long
Ba phẩm thành công”.
Bên cạnh đó, trước khi qua đời, ông cũng để lại cho học trò một lời tiên tri về hậu vận của đất nước như sau: “Ta muốn mở rộng làng xóm, nhưng e nửa chừng gặp tai họa, chắc có kẻ lạ đến phá hoại đất nước ta. Sau khi ta mất, con khéo giữ pháp này, gặp người họ Đinh thì truyền, nguyện ta đã mãn”.
Quả đúng như vậy, hơn 60 năm sau, lời tiên tri của Thiền sư Định Không đã trở thành sự thật. Nhà Đường cử Tiết Độ Sứ Cao Biền sang cai trị, bóc lột nhân dân ta.
Phải đến 1 thế kỷ sau đó thì tình cảnh loạn lạc này mới được Đinh Tiên Hoàng (924 - 979) chấm dứt. Nhà Đinh được thành lập, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, mở đầu cho thời đại độc lập, tự chủ của người Việt.
Thiền sư La Quý
Thiền sư La Quý (852 – 936) là người họ Đinh. Ông được các bậc hậu thế nể phục bởi khả năng tiên đoán tương lai. Tương truyền rằng, trước khi qua đời, ông đã trồng 1 cây gạo ở chùa Minh Châu, làng Diên Uẩn đồng thời để lại một bài kệ với nội dung như sau:
“Đại sơn long đầu khỉ
Cù vĩ ẩn châu minh
Thập bát tử định thiền
Miên thọ hiện long hình
Thổ kê thử nguyệt nội
Định kiên nhật xuất thanh”.
Dịch nghĩa bài thơ có nghĩa là:
“Đại sơn đầu rồng ngửng
Đuôi cù ẩn Châu minh
Thập bát tử định thành
Bông gạo hiện long hình
Thỏ gà trong tháng chuột
Nhất định thấy trời lên”.
Ở câu số 3 của bài kệ có dòng chữ “thập bát tử”. Đây là chiết tự của chữ Lý, có nghĩa là họ Lý. Chính vì vậy mà bài thơ được diễn giải như sau: “Đầu rồng hiện ở núi lớn / đuôi rồng giấu sự thịnh vượng / Họ Lý nhất định thành/khi cây gạo hiện hình rồng/ chỉ trong mấy tháng thỏ , gà, chuột / chắc chắn sẽ thấy mặt trời (vua) anh minh”.
Điều này ứng với sự ra đời của nhà Lý vào tháng 11 (tức tháng chuột) năm Kỷ Dậu (năm gà) 1009.
Thiền sư Vạn Hạnh
Thiền sư Vạn Hạnh (938 - 1025) là người họ Nguyễn. Ông quê ở châu Cổ Pháp (Từ Sơn, Bắc Ninh ngày nay). Ông có nhiều đóng góp trong việc mở ra nhà Lý. Bên cạnh đó, ông cũng là một nhà tiên tri của tiếng của thời bấy giờ.
Lời tiên tri của thiền sư Vạn Hạnh gắn liền với cây gạo do thiền sư La Quý trồng ở làng Diên Uẩn. Đại Việt Sử Ký ghi lại rằng, vào năm 1009, cây gạo này bị sét đánh và hiện lên dòng chữ:
“Thọ căn diễu diễu
Mộc biểu thanh thanh
Hoa đào mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông a nhập địa
Dị mộc tái sanh
Chấn cung kiến nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình”.
Bài thơ này dịch ra có nghĩa là:
“Gốc cây thăm thẳm
Ngọn cây xanh xanh
Cây hoa đào rụng
Mười tám hạt thành
Cành đông xuống đất
Cành khác lại sanh
Đông mặt trời mọc
Tây sao ẩn hình
Sáu bảy năm nữa
Thiên hạ thái bình”.
Sau khi suy ngẫm, Sư Vạn Hạnh đã lý giải bài thơ này như sau:
Câu “Thọ căn diễu diễu”, chữ “căn” có nghĩa là gốc mà gốc là vua. Chữ “diễu” đồng âm với chữ “yểu”, có nghĩa là nhà vua, tức là vua Lê Long Đĩnh sẽ chết yểu.
Còn câu “Mộc biểu thanh thanh” thì chữ “biểu” có nghĩa là ngọn, ngọn là bầy tôi. Chữ “thanh” đồng âm với chữ thịnh, có nghĩa là một trong số những quần thần sẽ lên nắm chính quyền. Ở câu số 3, chữ “hoa đào” ghép lại thành chữ “lê”, có nghĩa là nhà Lê sẽ sụp đổ. Sang đến câu thứ 4, chữ “thập bát tử” ghép lại thành chữ Lý. Điều này có nghĩa là nhà Lý sẽ lên ngôi.
Câu “Đông a nhập địa”, chữ “đông” và chữ “a” ghép với nhau thành chữ Trần. Điều này nói lên rằng, sau nhà Lý nhà Trần sẽ lên ngôi. Đến câu “Dị mộc tái sanh” tức là một dòng họ Lê khác (Lê Lợi và nhà Hậu Lê) sẽ nổi lên.
Như vậy, thiền sư Vạn Hạnh đã tiên đoán chính xác các diễn biến lịch sử của dân tộc trong 5 thế kỷ, từ thời nhà Tiền Lê cho đến thời nhà Hậu Lê.
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) có lẽ đã quá quen thuộc với mọi người. Dân gian vẫn thường gọi ông với cái tên là Trạng Trình. Ông là nhà văn hoá lỗi lạc, nhà tiên tri số 1 trong lịch sử Việt Nam. Những lời tiên tri của ông được tổng hợp lại trong “Sấm Trạng Trình”.
Tác phẩm đã đưa ra những lời tiên tri nhiều thế kỷ. Đến nay, những lời tiên tri này vẫn còn tiếp tục được tìm hiểu và luận giải. Trong đó có một số sự kiện xảy ra trong thế kỷ 20 đã được Trạng Trình dự đoán trước. Bao gồm:
- Cuộc cách mạng tháng Tám (1945) được tiên tri trong câu:
“ Đầu Thu gà gáy xôn xao/Trăng xưa sáng tỏ soi vào Thăng Long”
Giải nghĩa những dòng này như sau:
Ở câu đầu tiên, “đầu Thu” tức là tháng 7 âm lịch, “gà” là năm Ất Dậu trùng với thời điểm cách mạng tháng Tám diễn ra. “Gáy xôn xao” tức là có tiếng vang lớn, thức tỉnh mọi người.
Sang đến câu thứ 2, “Trăng xưa” tức là “cổ nguyệt” theo Hán tự, ghép lại với nhau sẽ thành chữ “Hồ” là Hồ Chủ tịch. “Sáng tỏ soi vào Thăng Long” là chỉ sự kiện Bác Hồ đọc Bản tuyên ngôn độc lập ở quảng trường Ba Đình, thủ đô Thăng Long - Hà Nội.
- Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (1954):
Sự kiện lịch sử này được tiên tri trong câu:
“Cửu cửu càn khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết Hoa tàn
Trực đáo Dương đầu Mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Tràng An”.
Dịch nghĩa các dòng thơ này như sau:
Ở câu 1, “cửu cửu” tức là 81 năm. Đây là khoảng thời gian từ khi triều đình Huế ký vào văn bản Hòa ước đầu hàng thực dân Pháp cho đến khi chiến dịch Điện Biên Phủ hành công theo “càn khôn dĩ định” hay quy luật đất trời.
Sang đến câu 2, “thanh minh thời tiết” tức là thời điểm tiến hành chiến dịch Điện Biên Phủ, trùng vào tháng 3 Âm lịch. “Hoa tàn” là sự thất bại của thực dân Pháp mà dưới thời Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngoại quốc được gọi là Hoa Lang.
Ở câu thứ 3, “trực đáo” có nghĩa là thẳng tiến, “dương đầu” là đầu năm con dê 1955. “Mã vĩ”, là cuối năm con ngựa 1954.
Câu thứ 4 có nghĩa là tám vạn quân Cụ Hồ tiếp quản Thủ đô Hà Nội mà tên gọi cũ là Tràng An.